Tình hình doanh nghiệp đăng ký tháng 4 năm 2020 bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19. Đặc biệt từ 01/4 đến 22/4, cả nước thực hiện giãn cách xã hội nên số lượng doanh nghiệp thành lập mới có sự sụt giảm mạnh. Trong tháng 4/2020, số doanh nghiệp thành lập mới là 7.885 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 93.854 tỷ đồng, giảm 46,9% về số doanh nghiệp và giảm 43,8% về số vốn so với cùng kỳ năm 2019. (So sánh tháng 04/2019 với tháng 4/2018: tăng 2,4% về số doanh nghiệp và tăng 25,0% về số vốn đăng ký). Đây là mức doanh nghiệp thành lập trong tháng thấp nhất trong 4 tháng qua.
1. Tình hình doanh nghiệp đăng ký tháng 4 năm 2020
– Doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường:
Số lao động đăng ký của các thành lập doanh nghiệp mới trong tháng 4/2020 là 72.020 người, giảm 45,2% so với cùng kỳ năm 2019 (so sánh tháng 4/2019 với tháng 4/2018, mức tăng là 23,2%).
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng 4/2020 là 3.810 doanh nghiệp, tăng 40,4% so với cùng kỳ năm ngoái (tỷ lệ này trong tháng 4/2019 giảm 17,3% so với tháng 4/2018). Đây có thể là tín hiệu cho thấy một bộ phận doanh nghiệp đã tái khởi động lại để chuẩn bị đón những cơ hội kinh doanh mới khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát.
– Doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường:
Tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong tháng 4/2020 là 7.267 doanh nghiệp, tăng 30,0% so với cùng kỳ năm 2019, bao gồm: 4.121 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 65,2%; 2.166 doanh nghiệp chờ hoàn thành thủ tục giải thể, tăng 13,8%; 980 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 17,6%.
Trong tháng 4/2020, số doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký là 2.864 doanh nghiệp, tăng 42,8% so với cùng kỳ năm 2019.
2. Tình hình đăng ký doanh nghiệp 4 tháng đầu năm 2020
2.1. Doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường
Các số liệu về tình hình đăng ký doanh nghiệp 4 tháng đầu năm 2020 cho thấy những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp. Thể hiện ở sự giảm sút về số doanh nghiệp thành lập mới, số vốn bổ sung hoặc cam kết đưa vào kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, số lao động đăng ký và sự gia tăng mạnh mẽ của số doanh nghiệp ngừng hoạt động trong ngắn hạn.
a) Doanh nghiệp thành lập mới
Với những diễn biến ngày càng phức tạp của dịch bệnh Covid-19 cùng với tác động cộng hưởng từ những yếu tố khác, số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đầu năm 2020 có sự sụt giảm đáng kể so với cùng kỳ các năm trước.
Cụ thể, cả nước có 37.596 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là lần đầu tiên số lượng doanh nghiệp thành lập mới sụt giảm trong 4 tháng đầu năm giai đoạn 2015-2020.
Vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 4 tháng đầu năm 2020 đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 17,9% so với cùng kỳ năm 2019. Điều này cho thấy doanh nghiệp đã có xu hướng thu hẹp quy mô để đảm bảo an toàn cho đồng vốn đưa vào kinh doanh.
Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng năm 2020 là 1.126.164 tỷ đồng (giảm 20,4% so với cùng kỳ năm 2019)
Bao gồm: số vốn đăng ký của doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 445.223 tỷ đồng (giảm 17,9%) và số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp là 680.941 tỷ đồng (giảm 21,9%) với 11.741 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn.
Tổng lượng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động giảm mạnh (21,9%) so với cùng kỳ năm trước cho thấy tâm lý của các nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng lớn bởi tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid-19, doanh nghiệp vẫn còn nhiều e ngại trong việc đầu tư thêm vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đầu năm 2020 là 315.731 lao động, giảm 29,7% so với cùng kỳ năm 2019.
– Phân theo lĩnh vực hoạt động:
Có tới 16/17 ngành có số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm 2019, đặc biệt đáng chú ý là các ngành: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (giảm 38,4%); Hoạt động dịch vụ khác (giảm 36,8%); Kinh doanh bất động sản (giảm 29,1%) và Giáo dục và đào tạo (giảm 24,8%). Đây là những ngành được xem là chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi diễn biến dịch bệnh trong giai đoạn này.
– Phân theo địa bàn:
Sự ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến doanh nghiệp trên khắp cả nước trở nên rõ nét khi mà tất cả khu vực trên toàn quốc đều ghi nhận sự giảm sút về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.
Khu vực Đông Nam Bộ có số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt cao nhất với 15.624 doanh nghiệp (chiếm 41,6% cả nước) và số vốn đăng ký là 203.124 tỷ đồng (chiếm 45,6% cả nước), giảm 13,3% về số doanh nghiệp và giảm 30,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, tại TP. Hồ Chí Minh, có 11.748 doanh nghiệp (chiếm 75,2% của khu vực và chiếm 31,2% cả nước) với số vốn đăng ký là 166.090 tỷ đồng (chiếm 81,8% của khu vực và chiếm 37,3% cả nước), giảm 14,6% về số doanh nghiệp và giảm 33,2% về số vốn so với cùng kỳ năm 2019.
Tiếp đó là Đồng bằng Sông Hồng với 11.478 doanh nghiệp (chiếm 30,5% cả nước) và số vốn đăng ký là 153.511 tỷ đồng (chiếm 34,5% cả nước), giảm 12,8% về số doanh nghiệp và tăng 17,7% về số vốn so với cùng kỳ năm 2019.
Trong đó, Thủ đô Hà Nội có 7.468 doanh nghiệp (chiếm 65,1% của khu vực và chiếm 19,9% cả nước) với số vốn đăng ký là 118.732 tỷ đồng (chiếm 77,3% của khu vực và chiếm 26,7% cả nước), giảm 13,1% về số doanh nghiệp và tăng 46,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2019.
Trung du và miền núi phía Bắc có mức độ giảm thấp nhất về số lượng doanh nghiệp thành lập mới với 1.592 doanh nghiệp (chiếm 4,2% cả nước), giảm 3,5% và số vốn đạt 14.609 tỷ đồng (chiếm 3,3%), giảm 32,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
– Phân theo quy mô vốn:
Doanh nghiệp thành lập mới tập trung chủ yếu ở quy mô vốn từ 0 – 10 tỷ đồng với 33.768 doanh nghiệp (chiếm 89,8%, giảm 12,5% so với cùng kỳ 2019). Một điểm đáng chú ý là số lượng doanh nghiệp thành lập mới ở mọi quy mô vốn đều đang có sự giảm sút, cụ thể: Số doanh nghiệp đăng ký thành lập ở quy mô từ 10 – 20 tỷ đồng là 1.949 doanh nghiệp (chiếm 5,2%, giảm 17,8% so với cùng kỳ 2019);
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập ở quy mô từ 20 – 50 tỷ đồng là 1.021 doanh nghiệp (chiếm 2,7%, giảm 13,8% so với cùng kỳ 2019); số doanh nghiệp đăng ký thành lập với quy mô vốn từ 50 -100 tỷ đồng là 435 doanh nghiệp (chiếm 1,2%, giảm 24,6% so với cùng kỳ 2019) và số doanh nghiệp đăng ký thành lập ở quy mô trên 100 tỷ đồng là 423 doanh nghiệp (chiếm 1,1%, giảm 27,1% so với cùng kỳ năm 2019).
b) Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
Theo ghi nhận hàng năm thì khoảng thời gian 4 tháng đầu năm thường là lúc các doanh nghiệp lên kế hoạch kinh doanh cho một năm tài chính mới, do đó, tỷ lệ doanh nghiệp quay trở lại hoạt động thời gian này sẽ cao nhất. Tuy nhiên, 4 tháng đầu năm nay, mặc dù tình hình dịch bệnh Covid-19 ở nước ta đã có dấu hiệu dần được kiểm soát nhưng vẫn chưa được xử lý hoàn toàn nên đa số doanh nghiệp vẫn đang chần chừ, nghe ngóng thông tin để có thể đưa ra phương án tối ưu nhất. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm nay là 17.823 doanh nghiệp, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2019, trong khi tỷ lệ này của 4 tháng đầu năm 2019 so với 4 đầu tháng năm 2018 tăng 52,6%.
Số lượng doanh nghiệp quay lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm 2020 tập trung chủ yếu ở các ngành: Bán buôn, bán lẻ (6.492 doanh nghiệp, chiếm 36,4%); Xây dựng (2.631 doanh nghiệp, chiếm 14,8%); Công nghiệp chế biến, chế tạo (2.208 doanh nghiệp,chiếm 12,4%).
2.2. Tình hình doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường
Tình hình doanh nghiệp rút khỏi thị trường tiếp tục thể hiện rõ xu hướng của doanh nghiệp hiện nay, đó là xu hướng chờ đợi, “đóng băng” hoặc đưa doanh nghiệp vào tình trạng “ngủ đông” để nghe ngóng, xem xét diễn biến của dịch bệnh, rồi mới quyết định tiếp tục kinh doanh hay “đóng cửa” doanh nghiệp, chưa “đóng cửa” doanh nghiệp hoàn toàn ở thời điểm này. Điều này thể hiện ở sự gia tăng mạnh về số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn và giảm về số doanh nghiệp giải thể, chờ giải thể.
Trong 4 tháng đầu năm 2020, có 41.755 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (tăng 5,6% so với cùng kỳ 2019), bao gồm: 22.696 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 33,6%), 13.956 doanh nghiệp chờ giải thể (giảm 19,2%), 5.103 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (giảm 3,8%). Trung bình mỗi tháng có 10.438 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
a) Doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn
Theo dữ liệu lịch sử thì tỷ lệ gia tăng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn của 4 tháng hàng năm trong giai đoạn 2015-2019 không có sự đột biến với mức trung bình khoảng 20%. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn 4 tháng đầu năm 2020 là 22.696 doanh nghiệp, tăng 33,6% với cùng kỳ năm 2019. Đây là mức tăng cao nhất về số lượng đăng ký tạm ngừng kinh doanh trong 4 tháng giai đoạn 2015-2020, thể hiện sự ảnh hưởng trực tiếp của dịch bệnh Covid-19 đến việc tạm ngừng kinh doanh của doanh nghiệp.
Một điểm đáng lưu ý là so với cùng kỳ năm 2019, số lượng các doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng mạnh ở 16/17 lĩnh vực, bao gồm (Doanh nghiệp đăng ký tháng 4 2020):
(1) Bán buôn; bán lẻ; (2) Công nghiệp chế biến, chế tạo; (3) Dịch vụ lưu trú và ăn uống; (4) Dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác; (5) Giáo dục và đào tạo; (6) Hoạt động dịch vụ khác; (7) Khoa học, công nghệ; dịch vụ tư vấn, thiết kế; quảng cáo và chuyên môn khác; (8) Kinh doanh bất động sản; (9) Nghệ thuật, vui chơi và giải trí; (10) Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; (11) Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; (12) Sản xuất phân phối, điện, nước, gas; (13) Thông tin và truyền thông; (14) Vận tải kho bãi; (15) Xây dựng; (16) Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội.
Trong đó, một số lĩnh vực mà các doanh nghiệp đang gặp phải khó khăn có tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh tăng cao nhất so với cùng kỳ năm 2019 là (Doanh nghiệp đăng ký tháng 4 2020):
Kinh doanh bất động sản (623 doanh nghiệp, tăng 109,8%); Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (197 doanh nghiệp, tăng 85,8%); Dịch vụ lưu trú và ăn uống (1.358 doanh nghiệp, tăng 61,3%); Hoạt động dịch vụ khác (308 doanh nghiệp, tăng 56,3%); Dịch vụ việc làm; du lịch (1.321 doanh nghiệp, tăng 50,5%); Giáo dục và đào tạo (405 doanh nghiệp, tăng 47,3%) và Vận tải kho bãi (1.331 doanh nghiệp, tăng 34,4%). Đây là các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch bệnh Covid-19.
Phân theo địa bàn, tất cả các vùng lãnh thổ đều tăng về số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh. Đồng bằng Sông Hồng có số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh cao nhất với 7.711 doanh nghiệp (chiếm 34,0% cả nước, tăng 33,7%); tiếp đến là Đông Nam Bộ với 7.527 doanh nghiệp (chiếm 33,2%, tăng 37,2%).
b) Doanh nghiệp chờ giải thể (Doanh nghiệp đăng ký tháng 4 2020)
Trong 4 tháng đầu năm 2020, số doanh nghiệp chờ giải thể là 13.956 doanh nghiệp; giảm 19,2% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó có 2.903 doanh nghiệp; bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; 5.277 doanh nghiệp đăng thông báo giải thể và 5.776 doanh nghiệp; chờ làm thủ tục giải thể với cơ quan thuế.
Các ngành kinh doanh chính có số lượng doanh nghiệp chờ giải thể lớn nhất là; Bán buôn, bán lẻ (5.155 doanh nghiệp, chiếm 36,9%); Xây dựng (1.588 doanh nghiệp, chiếm 11,4%); Công nghiệp chế biến, chế tạo (1.598 doanh nghiệp, chiếm 11,5%).
Đông Nam Bộ là khu vực có số lượng doanh nghiệp; chờ giải thể lớn nhất (5.499 doanh nghiệp, chiếm 39,4%); tiếp đến là khu vực Đồng bằng sông Hồng (3.006 doanh nghiệp, chiếm 21,5%); và khu vực Bắc trung Bộ và Duyên hải miền Trung (3.019 doanh nghiệp, chiếm 21,6%).
c) Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (Doanh nghiệp đăng ký tháng 4 2020)
Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 4 tháng đầu năm 2020; là 5.103 doanh nghiệp, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2019.
8/17 ngành kinh doanh chính có số lượng doanh nghiệp giải thể tăng. Các lĩnh vực có tỷ lệ doanh nghiệp giải thể tăng cao; so với cùng kỳ năm 2019 là Kinh doanh bất động sản; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội và Giáo dục và đào tạo; với tỷ lệ tăng lần lượt là 48,4%; 43,3% và 30,3%.
Phân theo vùng lãnh thổ, 03 vùng có số lượng doanh nghiệp giải thể trong 4 tháng đầu năm 2020; tăng so cùng kỳ năm 2019 là: Đồng bằng sông Hồng (1.268 doanh nghiệp, tăng 11,1%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (730 doanh nghiệp, tăng 15,9%); và Đông Nam Bộ (2.245 doanh nghiệp, tăng 28,9%).
Khu vực Tây Nguyên có số lượng doanh nghiệp giải thể; thấp nhất với 140 doanh nghiệp (chiếm 2,7% cả nước, giảm 27,1%). Đồng bằng Sông Cửu Long có 518 doanh nghiệp (chiếm 10,2% cả nước, giảm 23,6%); và Trung du và miền núi phía Bắc có 202 doanh nghiệp (chiếm 4,0%, giảm 36,1%).
2.3. Tình hình doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký (Doanh nghiệp đăng ký tháng 4 2020)
Trong 4 tháng đầu năm 2020, trên cả nước có 14.304 doanh nghiệp; không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là những doanh nghiệp không còn kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký; qua kiểm tra của cơ quan thuế thì không tìm thấy và không liên lạc được. Những doanh nghiệp này có thể đang hoạt động, đã chuyển địa điểm kinh doanh; nhưng không thông báo với cơ quan nhà nước hoặc đã ngừng hoạt động nhưng không đăng ký.